Tinh dầu ngăn ngừa sự lây lan của bệnh cúm (Phần 2 - End)
Các hợp chất thơm có hoạt tính kháng vi-rút
Hầu hết các bằng chứng cho thấy các hợp chất thơm hoạt động chống lại cúm được thực hiện trong ống nghiệm (in vitro), với các tế bào nuôi cấy bị nhiễm các chủng IAV. Những nghiên cứu này rất lý tưởng để xác định các tương tác hóa học và sinh học trong một tế bào. Việc phân lập các điểm cụ thể trong vòng đời của virus sẽ đơn giản hơn và xác định thời điểm một hợp chất tương tác với các quá trình di động. Tuy nhiên, việc dịch các nghiên cứu in vitro sang các ứng dụng lâm sàng đòi hỏi các nghiên cứu in vivo, sử dụng các sinh vật mẫu. Những nghiên cứu này có sẵn cho một số hợp chất thơm, nhưng các nghiên cứu in vivo bổ sung là cần thiết trước khi tiến tới nghiên cứu lâm sàng ở người. Các hợp chất được xác định là chất ức chế các điểm cụ thể trong vòng đời IAV trong các nghiên cứu in vitro có thể được nghiên cứu như là phương pháp điều trị tiềm năng ở bệnh nhân người. Về cơ bản, mặc dù có một số nghiên cứu đầy hứa hẹn, các đề xuất trên đây rất đáng mong đợi.
Ngăn ngừa di cư và giai đoạn đầu của vòng đời IAV trong tế bào chủ
Trong giai đoạn đầu trong vòng đời của cúm, virut bám vào tế bào, được nội hóa và trải qua quá trình không hợp nhất. Các loại thuốc được phê duyệt điều trị giai đoạn đầu của IAV hoạt động theo quy trình không hợp nhất, cụ thể là mở kênh ion M2. Tuy nhiên, những loại thuốc này không hiệu quả đối với phần lớn các trường hợp cúm hiện nay, do đột biến gây ra tình trạng kháng thuốc. Nhiều hợp chất thơm cho thấy tác dụng chống cúm sớm hơn trong quá trình lây nhiễm. Tinh dầu chanh Lemon (Melissa officinalis) đã được sử dụng rộng rãi để ngăn ngừa nhiễm HSV. Tương tự như vậy, IAV được xử lý trước bằng tinh dầu chanh không thể gắn vào các thụ thể tế bào bề mặt tế bào chủ trong ống nghiệm (Pour Afghanistanburi et al 2016).
Tinh dầu Chanh (Lemon)
Tinh dầu tràm trà (melaleuca alternifolia) ức chế cúm trong giai đoạn đầu bằng cách ngăn chặn quá trình xử lý nội bào của hạt virus. Khi được đưa vào môi trường nuôi cấy tế bào, tinh dầu cây trà đã ngăn chặn sự không liên kết của virut bằng cách can thiệp vào quá trình axit hóa các endosome và phản ứng tổng hợp màng (Garozzo et al 2009, Garozzo et al 2011, Garozzo et al 2013, Li et al 2013 ). Khả năng ngăn chặn axit hóa endosome được gán cho các thành phần dầu cây trà terpinen-4-ol, α-terpineol và terpinolene (Garozzo et al 2009, Garozzo et al 2011). Chúng đã được thử nghiệm chống lại các vi-rút bổ sung, nhưng hành động của chúng có thể là đặc trưng của IAV. Tinh Dầu cây trà, khi được khuếch tán tích cực với máy phun sương trong hai giây, đã loại bỏ gần như toàn bộ IAV trong không khí trong 10 phút và cho thấy không có virus trong 15 phút sau khi điều trị bằng máy phun sương (Usachev et al 2013). Tinh dầu tràm gió (Eucalyptus polybractea) cho thấy không có virus trong 15 phút sau thời gian khuếch tán hoạt động 15 giây với máy phun sương (Bảng 3) (Usachev et al 2013).
Bảng 3: Tinh dầu và virut cúm.
Tinh dầu Tràm Trà (Melaleuca)
Trong một nghiên cứu in vitro đối với bệnh cúm H1N1, một số loại tinh dầu và thành phần hóa học cho thấy khả năng ức chế hoạt động của HA. Lá quế (Cinnamomum zeylanicum), bergamot (Citrus bergamia), sả (Cymbopogon flexuosus), tinh dầu bạch đàn xanh (Eucalyptus globulus), và cỏ xạ hương (Thymus Vulgaris) khi được áp dụng, một thành phần chính của nụ đinh hương (Syzygium aromaticum) và dầu lá quế (Tisserand và Young 2014), cũng là một chất ức chế HA hiệu quả (Vimalanathan và Hudson 2014). Dầu oải hương (Lavandula angustifolia) và hoa phong lữ (Pelargonium graveolens) cũng ức chế HA, nhưng chỉ khi được sử dụng ở nồng độ cao. Khi khuếch tán thụ động trong 10 phút, dầu bergamot và bạch đàn xanh cho thấy sự giảm đáng kể sự phát triển của virus. Khi khuếch tán thụ động trong 30 phút, dầu quế và dầu phong lữ cho thấy sự giảm sự phát triển của virus (Vimalanathan và Hudson 2014). Tuy nhiên, những nghiên cứu này liên quan đến việc khuếch tán trong không gian nhỏ (ống nhỏ và buồng kín), và do đó khuếch tán phòng trong nhà có thể không đạt được kết quả tương đương (Usachev et al 2013, Vimalanathan và Hudson 2014).
Tinh dầu Bạch Đàn (Khuynh diệp)
Giai đoạn giữa của vòng đời IAV trong một tế bào chủ
Giai đoạn giữa trong vòng đời của cúm bao gồm cảm ứng autophagy, sao chép bộ gen IAV và sản xuất protein IAV. Autophagy bị ức chế hiệu quả bởi tinh dầu nụ đinh hương và eugenol trong các tế bào bị nhiễm 8 chủng IAV riêng biệt (Dai et al 2013). Các dấu hiệu cho mức độ viêm và cytokine đã giảm so với nhóm kiểm soát và cả sự nhân lên của virus và sự chết của tế bào đều giảm (Dai et al 2013). Khi được uống bởi chuột hàng ngày trong 5 ngày sau khi bị nhiễm bệnh, tinh dầu Mosla dianthera (cây men) làm giảm hoạt động HA, và ngăn ngừa viêm phổi và tổn thương. Điều này có thể là do những cải thiện trong hệ thống miễn dịch của máy chủ lưu trữ, được đo bằng nồng độ cytokine (Wu et al 2012). (tinh Dầu Mosla dianthera không được sản xuất thương mại. Thành phần chính của nó là elemicin 16,5%, thymol 14,5% và-caryophyllene 14,5%.). Khi được uống bởi chuột hàng ngày trong 7 ngày sau khi bị nhiễm bệnh, patchoulol ngăn ngừa viêm phổi do IAV và tổn thương. Điều này là do sự cải thiện khả năng miễn dịch của vật chủ, được đo bằng kích hoạt tế bào T và nồng độ cytokine / chemokine (Li et al 2012). Patchoulol được tìm thấy trong tinh dầu hoắc hương (Pogostemon cablin) với tỷ lệ khoảng 30%.
Bảng 4: Thành phần tinh dầu và tác dụng trên virut cúm.
Sau khi sao chép bộ gen, protein IAV được sản xuất trong tế bào chất. β-santalol cho thấy sự giảm tăng trưởng IAV và tổng hợp bộ gen IAV trong ống nghiệm (Kiyohara et al 2012, Paulpandi et al 2012). Germacrone cũng làm giảm sự phát triển của IAV một cách hiệu quả và đặc biệt làm giảm sự phiên mã của các gen virut và protein được tạo ra trong ống nghiệm (Liao et al 2013). Germacrone cho thấy tác dụng phụ với oseltamivir (chất ức chế NA) in vitro và in vivo, cho thấy germacrone có thể là phương pháp điều trị hiệu quả khi được sử dụng kết hợp với phương pháp điều trị truyền thống (Liao et al 2013). Germacrone được tìm thấy trong tinh dầu Phong lữ (Geranium macrorrhizum) với tỷ lệ khoảng 45%.
Figure 4. Understanding influenza infection. CDC
Tinh dầu Phong Lữ (Geranium)
trans-Cinnamaldehyd, chiếm khoảng 80% dầu quế (Cinnamomum cassia) và 70% dầu vỏ quế (Tisserand và Young 2014), đã ức chế sản xuất protein IAV trong ống nghiệm (Hayashi et al 2007). Quan trọng hơn, ứng dụng nội sọ (khi bạn đưa hợp chất lỏng vào khoang mũi bằng pipet) trans-cinnamaldehyd, cho phép hít hơi trực tiếp, có hiệu quả để điều trị viêm phổi do cúm gây chết người (Hayashi et al 2007). Phương pháp điều trị này có thể dịch trực tiếp sang người, nhưng vì trans-cinnamaldehyd có thể là chất gây mẫn cảm da (Tisserand và Young 2014), nên hít vào mà không dùng trực tiếp trong mũi có thể là lựa chọn tốt hơn. Hiệu quả của điều trị bằng đường hô hấp sẽ cần phải được xác nhận trong các thử nghiệm ở người.
Hai hỗn hợp tinh dầu đã được chứng minh là có tác dụng ức chế sự tăng trưởng của cúm in vitro (Bảng 5). Cả hai hỗn hợp đều chứa vỏ quế, bạch đàn xanh và tinh dầu hương thảo (Rosmarinus officinalis) (Brochot et al 2016). Blend 2 còn chứa nụ đinh hương và tinh dầu cam ngọt (Citrus sinensis), và hỗn hợp này ức chế sản xuất protein virut (Wu et al 2010).
Tinh dầu Quế Quan (Cinnamon Bark)
Giai đoạn cuối của vòng đời IAV trong một tế bào chủ
Trong giai đoạn cuối của bệnh nhiễm trùng cúm, các protein virut và vật liệu di truyền di chuyển đến màng tế bào chủ và trở thành một virut tiền sinh vừa chớm nở. Để virus con cháu thoát khỏi tế bào chủ và lây lan, NA phải tách màng và chia sẻ. tinh Dầu lá quế và eugenol đều ức chế hoạt động NA trong các tế bào phơi nhiễm với bệnh cúm (Vimalanathan et al 2014), ức chế sự lây lan của IAV. Patchoulol, ngoài việc điều chỉnh phản ứng viêm tế bào với cúm, còn có thể liên kết vị trí hoạt động trên protein NA (Wu et al 2011). Các chất ức chế NA hiện tại hoạt động theo cùng một nguyên tắc và ngăn chặn sự lây lan của bệnh cúm.
Những liệu pháp mùi hương được đề xuất cho người dùng gia đình
Các hạt cúm có thể lây lan qua các giọt trong không khí, tiếp xúc gần gũi với người bị nhiễm bệnh và tiếp xúc với các vật thể bị nhiễm vi-rút (Tesini 2018). Các hạt cúm có thể tồn tại trên các vật thể trong tối đa 48 giờ (CDC), vì vậy khử trùng vật thể hiệu quả là một bước quan trọng trong việc ngăn ngừa sự lây lan của bệnh cúm. Các hướng dẫn CDC hiện tại đề nghị khử trùng các vật bằng clo, hydro peroxide, xà phòng và rượu (CDC). Ethanol có hiệu quả chống lại hầu hết các loại virus có liên quan đến lâm sàng, bao gồm cả bệnh cúm (Kampf 2017). Hydrogen peroxide đã được chứng minh là có hiệu quả chống lại cúm và norovirus, khi được sử dụng trên bề mặt rắn (Gidel et al. 2014). Tuy nhiên, hiệu quả của việc sử dụng các chất này trên bề mặt xốp là không rõ ràng. Sự phát triển của các hóa chất sẽ là chất khử trùng bề mặt phổ quát là chìa khóa để tiêu diệt virus trong tất cả các môi trường. Việc sử dụng các loại tinh dầu để tiêu diệt vi khuẩn được thiết lập (Nazzaro et al 2013, Vasconcelos et al 2018), và bằng chứng cho việc sử dụng chúng để tiêu diệt virus đang gia tăng. Có bằng chứng cho thấy khuếch tán tinh dầu có hiệu quả trong việc loại bỏ vi khuẩn và virus trong không khí, nhưng sự an toàn của phương pháp này phải được khám phá thêm nữa.
Dựa trên nghiên cứu in vitro, tinh dầu bạch đàn xanh hoặc cây trà xanh (Eucalyptus polybractea) hoăc (Melaleuca Alternifolia) trong 15 giây là phương pháp nhanh chóng và hiệu quả để loại bỏ các giọt cúm trong không khí trong vòng 15 phút (Usachev et al 2013). Những loại tinh dầu này được coi là an toàn để sử dụng với hầu hết mọi người, và không chứa các thành phần hóa học là chất kích thích màng. Tuy nhiên, hầu hết người dùng gia đình đều sở hữu máy khuếch tán với đầu ra vừa phải, thay vì máy phun sương thương mại. Điều này có thể hạn chế việc thực hiện phương pháp tiêu diệt cúm trong không khí này. Để tăng hiệu quả, người dùng có thể sử dụng máy phun sương tiêu dùng trong một không gian hạn chế, chẳng hạn như phòng ngủ kín. Sau mỗi lần điều trị, căn phòng nên được chuyển qua tình trạng thông thoáng bằng cách mở một cửa sổ để cho phép các loại tinh dầu còn lại rời đi, và để có được không khí trong lành vào phòng.
Lá bạch đàn
Sự khuếch tán thụ động của tinh dầu bergamot (Citrus bergamia) hoặc bạch đàn (Eucalyptus globulus) trong 10 phút, hoặc tinh dầu quế (Cinnamomum zeylanicum) trong 30 phút, đủ để giảm hoạt động của cúm trong môi trường nuôi cấy tế bào. Blend # 2, hỗn hợp thương mại có chứa vỏ quế, nụ đinh hương (Syzygium aromaticum), cam ngọt (Citrus sinensis), khuynh diệp và tinh dầu hương thảo (Rosmarinus officinalis), làm giảm hiệu quả hoạt động của cúm tại nhiều thời điểm trong nuôi cấy tế bào (Bảng 5) (Wu et al 2010). Điều này bổ sung hỗ trợ cho việc pha trộn các hỗn hợp khuếch tán để vệ sinh phòng. Chồi cây đinh hương và dầu lá quế có nhiều eugenol, cũng cho thấy hoạt động chống cúm lan rộng trong giai đoạn giữa của vòng đời cúm. Vì tinh dầu vỏ quế có chứa trans-cinnamaldehyd, chất gây kích ứng và nhạy cảm, nên không nên sử dụng nó trong hỗn hợp khuếch tán trong một khoảng thời gian dài. Tuy nhiên, khuếch tán trong 30 phút trong một căn phòng trống, sau đó mở cửa cho không khí tràn vào phòng sẽ là một cách làm hợp lý. Đối với người dùng gia đình, một ống hít có chứa tinh dầu chống cúm sẽ là một lựa chọn khác. Thuốc hít rất tốt cho việc sử dụng khi đang di chuyển và loại bỏ sự cần thiết phải xem xét các điều kiện sức khỏe của người khác.
Bảng 5: Hỗn hợp tinh dầu và tác dụng với virut cúm.
Nhiều loại tinh dầu có thể làm giảm hoạt động của cúm khi bôi trực tiếp lên các tế bào bị nhiễm cúm. Người dùng gia đình có thể sử dụng các kết quả in vitro này để xác định các loại tinh dầu cần sử dụng trong việc làm sạch bề mặt. Tuy nhiên, làm sạch bề mặt rắn bằng hydro peroxide có thể là một cách hiệu quả và an toàn hơn. Vẫn còn phải xác định xem tinh dầu được nebulized hoặc khuếch tán sẽ có hiệu quả để làm sạch bề mặt xốp. Không rõ cúm có thể tồn tại bao lâu trên các bề mặt xốp và khi có thể, làm sạch bề mặt xốp bằng các chất được khuyến nghị CDC là tốt nhất.
Tinh dầu Đinh Hương (Clove)
Kết luận
Cúm theo mùa và đại dịch là mối quan tâm chính đối với sức khỏe con người. Hầu hết các chủng cúm đã trở nên kháng với các loại thuốc cúm hiện có và cần phải phát triển các phương pháp điều trị mới. Không rõ liệu cúm có thể phát triển tính kháng đối với các hỗn hợp hóa học phức tạp như tinh dầu hay không, nhưng có thể các chủng cúm có thể phát triển tính kháng với các thành phần hóa học cụ thể như trans-cinnamaldehyd. Tuy nhiên, vì các loại tinh dầu và các thành phần của chúng thường hoạt động theo nhiều bước trong vòng đời của virus, nên tình trạng kháng thuốc có thể không đầy đủ và chỉ ảnh hưởng đến các bước cụ thể trong vòng đời.
Nhiều nghiên cứu trong ống nghiệm đã làm rõ các cơ chế mà qua đó một số loại tinh dầu và thành phần hóa học của chúng ngăn chặn hoạt động của bệnh cúm. Những loại tinh dầu này có thể được sử dụng để làm giảm sự lây lan của cúm, nhưng các bước tiếp theo là phải phát triển các liệu pháp mùi hương vì phương pháp điều trị cúm là tiến hành các nghiên cứu in vivo. Các nghiên cứu trên chuột đã xác định các hợp chất thơm cụ thể giải quyết hậu quả của bệnh cúm bao gồm viêm phổi, tổn thương phổi và viêm phổi. Hy vọng, những kết quả in vivo này cũng sẽ dẫn đến các phương pháp điều trị thành công ở người.
Vui lòng tham khảo link chi tiết các sản phẩm tinh dầu Mỹ, đạt chuẩn CPTG
http://familycare24h.com/tinh-dau/
Sưu tầm và biên soạn bởi Familycare24h